Trước
Sau

Chương 33

Tỉnh

dậy, thấy Pusyseda đang ngồi trước mặt, ánh mắt đăm chiêu, chăm chú quan sát

gương mặt tôi. Tôi lẳng lặng đứng lên. Hôm nay là ngày cuối của tôi ở Khâu Từ,

sắp xếp đồ đạc xong xuôi, nhét chặt hai chiếc balô Northface, lát nữa tôi sẽ

đến điểm hẹn để gia nhập đoàn thương nhân.

Khoác

áo lên người, tôi đưa tay xuống dưới gối, không thấy gì cả. Kéo gối ra, cũng

không thấy. Nhìn quanh xem có rơi đâu đó không, vẫn không thấy. Đâu rồi nhỉ?

- Đừng

tìm nữa.

Giọng

nói đượm vẻ mệt mỏi của Pusyseda cất lên:

- Tôi

giấu đi rồi.

- Cậu…

Tôi nổi

giận:

- Sao

cậu làm vậy? Trả lại cho tôi.

- Không

có cái vòng bự tướng ấy, chị sẽ không bay được lên trời.

- Cậu!

Việc đó

mà cậu ta cũng nghĩ ra, thật liều lĩnh!

- Trả

chiếc đồng hồ, à không, trả chiếc vòng lại cho tôi. Nếu cậu bất cẩn ấn vào nút

đó, hậu quả khôn lường.

- Hậu

quả ư?

Cậu ta

cười mỉa, thái độ bất cần.

- Hậu

quả là tôi sẽ bay lên trời ư?

-

Không.

Không

có áo chống tia phóng xạ, cậu ta chẳng thể bay đi đâu.

- Khi

đó sẽ có một luồng ánh sáng cực mạnh, nếu bị chiếu vào, chỉ vài ngày sau, thân

thể cậu sẽ tan rữa, cạn máu mà chết.

Tôi

tưởng tượng ra hậu quả khủng khiếp ấy để doạ cậu ta.

- Được

thôi, tôi sẽ không động vào bất cứ thứ gì. Nhưng, cái vòng đó, tôi sẽ giữ.

Pusyseda

tỏ ra không biết sợ hãi là gì, thản nhiên đứng lên, cười với tôi.

- Nếu

chị cho rằng vào phòng tôi có thể tìm thấy chiếc vòng thì xin mời tự nhiên!

-

Pusyseda, cậu muốn gì?

Tôi mệt

mỏi tựa vào thành giường, sao cậu ta cứ gây chuyện vào lúc tâm tư tôi rối bời

thế này?

- Muốn

gì chị còn không hiểu hay sao?

Cậu ta

sáp lại gần tôi, đấy mắt vằn lên những tia đỏ.

- Tôi

biết bây giờ chị vẫn chưa yêu tôi, nên tôi phải tận dụng thời gian.

Tôi cắn

môi, nghiêng đầu đi, không muốn nhìn cậu ấy.

- Vô

ích thôi.

- Cứ

mặc tôi!

Cậu ta

đột nhiên nổi đoá, cáu gắt:

- Dậy

mau, đến giờ phải đi rồi!

- Đi

đâu?

- Thành

cổ Taqian. Tôi và các anh em sẽ đưa chị đến đó.

Tôi gần

như bị cậu ta nhấc lên xe. Không muốn nhưng tôi không lại được với sức mạnh của

cậu ta, chỉ đành ngậm đắng nuốt cay ngồi yên trong xe. Pusyseda cùng bốn người

bạn trong đội cấm vệ quân hộ tống tôi ra khỏi thành Khâu Từ.

Cỗ xe

lắc lư, tôi thẫn thở, cảm giác có thứ gì đó đang dồn tụ trong lòng, muốn đẩy ra

không đẩy được, muốn nuốt vào không nuốt được. Sáng sớm hôm qua, tôi đứng nép

vào một góc tường cách cổng chùa không xa, lén dõi theo cậu ấy. Rất nhiều người

đã đến tiễn Bundahatta, người dân trong thành Subash cũng kéo đến rất đông, cả

biển người nhấp nhô, chen chúc, kín hết khoảng không gian trước cổng chùa. Tôi

không thấy Rajiva đâu cả. Mải đến khi cậu ấy lên lưng lạc đà, tôi mới vội đưa

tay xoa nhẹ chiếc cổ đã tê dại vì mỏi của mình và dặn lòng không được chớp mắt.

Cách nhau cả biển người mênh mông, nhưng tôi vẫn có thể cảm nhận được nổi cô

đơn trong mắt cậu ấy. Lúc Rajiva đưa tay lên, để lộ chuỗi hạt bằng gỗ đàn hương

đã sờn bạc, tôi bất giác nắm chặt vành khăn lụa Atala choàng trên cổ. Lục lạc

vang lên lanh canh, Rajiva dõi mắt kiếm tìm, nhưng vô vọng, cậu ấy cúi đầu,

xoay người bước đi. Đoàn người dằng dặc nối nhau với những chiếc áo cà sa màu

nâu sòng chầm chậm trôi xa, rồi mất hút ở một khúc quanh nơi hẻm núi Thiên Sơn

heo hút. Tôi không nén nổi nước mắt.

Xe ngựa

lắc lư, nghiêng ngả. Tôi mê man, đắm chìm trong từng khoảnh khắc của hồi ức,

cho đến khi Pusyseda thông báo đoàn xe phải dừng lại để dựng trại. Tôi phớt lờ

sự tức giận trào lên trong sóng mắt Pusyseda, ăn uống qua loa, rồi nhanh chóng

rút về lán trại của mình.

Cậu ta

bướng bỉnh đi theo, tôi lẳng lặng xoay lưng lại, nằm xuống ngủ, xem cậu ta như

không khí. Pusyseda thở dài, buồn bã, bước ra.

Chúng

tôi đến Taian lúc chiều muộn ngày hôm sau, hoàng hôn đổ dài trên những bức

tường loang lổ. Chứng kiến khung cảnh tiêu điều ấy, nỗi buồn như thuỷ triều dâng

lên xâm chiếm. Tôi chưa bao giờ cảm thấy chán nản với công việc như lúc này.

Đột nhiên băn khoăn, liệu việc tiến hành khảo sát, đo đạt, xác định vị trí của

một thành trì đã hoang tàn sau gần hai nghìn năm bể bãi nương dâu có thực sự ý

nghĩa hay không? Con người luôn vội vã tiến về phía trước, mọi thứ trong thế kỷ

XXI thay đổi chỉ trong tích tắc, liệu ai có đủ kiên nhẫn dừng bước để chiêm

nghiệm những thứ đã thuộc về quá khứ?

Rajiva

cũng vậy, ngoài những nhà nghiên cứu về Phật giáo và lịch sử, thử hỏi có bao

nhiêu người biết đến sự tồn tại của cậu ấy? Hoạt hình Nhật Bản đã trở thành một

phần không thể thiếu trong đời sống của giới trẻ, nhưng thử hỏi có bao nhiêu

bạn trẻ biết rằng, các nhân vật quen thuộc với tên gọi thường khiến chúng ta

níu lưỡi khi đọc như:

Asura,

Dragon, Yaksha, Gandharva, Garuda, Kinnava, … đều là thành quả dịch thuật của

Rajiva?

Tôi uể

oải lôi đồ nghề ra, mặc lòng có thích hay không, lúc này tôi phải làm một việc

gì đó mới được. Nếu không, đầu óc tôi sẽ nổ tung vì những suy nghĩ chất ngất,

hỗn độn mất! Lúc đầu tôi một mực từ chối sự giúp đỡ của Pusyseda, nhưng cậu ta

nằng nặc giằng lấy thước cuộn nên tôi đành để mặc cho cậu ta giúp.

Buổi

tối, chúng tôi dựng trại trên nền đất cũ hoang tàn, đổ nát của thành phố cổ.

Ngồi bên đống lửa gặm bánh nướng Khâu Từ trệu trạo nhai, nuốt từng miếng, tôi

nhanh chóng “bỏ cuộc”, đưa mắt về phía toà thành hoang phế trong đêm u tịch.

Không biết giờ này cậu ấy đang ở đâu? Có đang ngồi trước đống lửa và bận lòng

về “ai đó” như tôi không? Còn nhớ lần đầu tiên gặp Rajiva, cũng vào một đêm

tháng 10 giữa sa mạc mênh mông hoang vu. Khi ấy cậu vẫn là một thiếu niên, đôi

mắt long lanh, chăm chú nhìn tôi đầy vẻ hiếu kỳ.

- Chị

đang nghĩ gì thế?

Một cốc

nước được đẩy đến trước mặt tôi, ánh lửa bập bùng trong mắt Pusyseda, cậu ta

giống Rajiva quá!

Tôi đón

lấy cốc nước, áp tay vào sưởi ấm.

- Nơi

đây từng là Đô hộ phủ của Ban Siêu tại Tây Vực, 16 năm chinh chiến của cha con

Ban Siêu đã làm thay đổi lịch sử Tây vực và cả lịch sử Khâu Từ.

Pusyseda

ngồi xuống bên cạnh tôi, hướng mắt vào đống lửa.

- Kể

cho tôi nghe về ông ấy đi.

- Tôi

rất ngưỡng mộ Ban Siêu. Cha ông là Ban Bưu, anh trai là Ban Cố, em gái là Ban

Chiêu, họ đều là những nhà sử học và nhà văn nổi tiếng thời Hán. Bản thân ông

lúc đầu cũng theo nghiệp văn chương nhưng sau đó đã bỏ bút để cầm gươm.

Tôi

nhấp một ngụm nước, hồi tưởng lại gia đoạn lịch sử hào hùng ấy.

- Hán

Vũ Đế hạ lệnh cho Trương Khiên “khai thông” Tây vực, thi hành chính sách kết

giao hoà hảo, chỉ cần các tiểu quốc Tây vực thuận theo nhà Hán, không những

không phải cống nạp, mà còn được Hán

triều ban thưởng và cấp cho các kỹ thuật tiên tiến của Trung Nguyên. Thái độ

cầu hoà này khác hẳn với chính sách xâm chiếm tàn bạo của quân Hung Nô đối với

Tây vực. Bởi vậy, trong một thời gian dài, Tây vực đã hoàn toàn quy thuận triều

Hán, khiến quân Hung Nô vô cùng tức tối. Nhưng đến cuối đời Hán, Vương Mãng

soán ngôi, thiên hạ đại loạn, quân Hung Nô được dịp ngóc đầu dậy, khống chế

toàn bộ Tây vực. Đến khi Minh Đế, con trai của Quang Vũ Đế lên ngôi mới phải

Đậu Cố điều binh tấn công quân Hung Nô ở phía Bắc. Từ đó, lịch sử đã viết những

trang hào hùng về cuộc đời người anh hùng Ban Siêu.

Thành

quách tiêu điều ủ mình trong gió thu se sắt là chứng tích của những tháng năm

huy hoàng ấy. Ban Siêu cùng với đội quân 36 người của mình đã chiến đấu và tiêu

diệt 130 tên địch, từ chiến thắng đó, người đời mới có câu ngạn ngữ “không vào

hang cọp làm sao bắt được cọp con”. Khi Hán Chương Đế quyết định từ bỏ tây vực

và hạ chiếu triệu hồi Ban Siêu về Trung Nguyên, ông đã kháng chỉ và cùng các

tộc người Tây vực kiên trì trấn giữ Salaq suốt năm năm trời. Số binh lính người Hán

dưới quyền chỉ huy của ông không nhiều, nhưng ông đã thuần phục được các tiểu

quốc Tây vực bằng nhân cách và tài trí của mình.

Sau rất

nhiều nỗ lực của cha con Ban Siêu,

Khâu Từ đã quy thuận nhà Hán. Vương triều nhà Bạch do Ban Siêu dưng lên đã cai

quản Khâu Từ gần tám trăm năm. Nhưng đến thời kì này, Khâu Từ không còn nghe

theo hiệu lệnh của Trung Nguyên nữa, nên mới dấy lên cơn binh biến, để rồi mười

một năm sau, Rajiva sẽ phải đối diện với bước ngoặt lớn trong cuộc đời.

Trái

tim như vỡ ra, rỉ máu, cảnh sắc trước mắt như cũng nhuốm một màu sẫm đỏ. Tôi

nhắm mắt lại.

- Sao

chị không kể tiếp?

- Cậu

là người khâu Từ kia mà, sao lại không hay biết về giai đoạn lịch sử này?

Mở mắt

ra, sắc đỏ biến mất, chỉ thấy đôi mắt Pusyseda long lanh, dò xét. Tôi

cười buồn.

- Tôi

không sao, không cần nghĩ cách làm thay đổi tâm trạng của tôi đâu.

Cậy ấy

mỉm cười, rồi yên lặng.

- Quan

hệ giữa cậu và Bạch Chấn thế nào?

Cậu ta

nheo mày.

- Vẫn

ổn, sao chị hỏi chuyện này?

Tôi do

dự nhưng rồi vẫn quyết định nói ra:

- Cậu

đừng làm quân nhân nữa, được không?

Pusyseda

tỏ ra kinh ngạc, nhìn tôi đầy nghi hoặc.

- Có

thể cậu cho rằng lời nói của tôi là hàm hồ, nhưng hãy tin tôi, những gì tôi nói

đều là sự thật.

Tôi

nhìn thẳng vào mắt cậu ta, chậm rãi buông từng tiếng:

- Ngày

sau, Khâu Từ sẽ trải qua biến cố rất lớn, gia nhập quân đội sẽ nguy hiểm đến

tính mạng. Hãy kết thân với Bạch Chấn, người đó rất có thể sẽ là chỗ dựa của

cậu trong tương lai.

Pusyseda

dường như quá đỗi kinh ngạc, trầm ngâm hồi lâu. Lúc sau mới nhếch môi cười rất

khó khăn:

- Không

ngờ, chị cũng đã tiết lộ cho tôi biết trước tương lai của mình.

Chưa

hết ngạc nhiên, bàn tay tôi đã bị cậu ta nắm chặt, giọng nói dịu dàng đến bất

ngờ.

- Ở lại

bên tôi, cùng tôi vượt qua giai đoạn khó khăn mà chị vừa nói, được không?

Cậu ta

đặt tay tôi vào lòng mình.

- Chị

là tiên nữ giàu lòng từ bi, chắc sẽ không để mặc tôi chịu khổ, đúng không?

Tôi

gượng gạo vùng thoát, chạm phải vết thương, không chịu nổi tôi kêu đau Pusyseda

lập tức buông tay.

Cậu ta

thở dài, vẻ đau buồn gợn trong đáy mắt, quay lại với ngọn lửa bập bùng.

- Ngải

Tình, nếu tôi xuất gia, liệu chị có thích tôi không?

- Cậu!

Tôi

giật mình:

- Cậu

nói bậy cái gì thế!

Cậu ta

cười vang:

- Đùa

chị thôi. Tôi mà xuất gia, sẽ có không biết bao nhiêu cô nàng khóc sưng mắt lên

mất! Rồi tôi lại phải phá giới để dỗ dành họ thôi! Người như tôi, chẳng thể

thành Phật được.

Tôi bật

cười:

-

Pusyseda, rốt cuộc cậu thích tôi ở điểm nào?

- Không

biết. Chị có xinh lắm đâu, ngực lại nhỏ, không biết tôi thích chị ở điểm gì cơ

chứ?

Cậu ta

nhìn tôi, nụ cười vụt tắt, nhẹ nhàng cất giọng:

- Ngải

Tình, chị rất thuần khiết.

Đôi mắt

màu xám nhạt từ tốn chiêm ngưỡng khuôn mặt tôi.

- Đôi

mắt thuần khiết, nụ cười thuần khiết, tâm hồn thuần khiết. Ở bên chị, tôi thấy

mình cũng trở nên thuần khiết, không muốn nghĩ đến những chuyện bậy bạ nữa.

Cậu ta

nhắm mắt lại, lúc mở ra nhìn tôi, ánh mắt buồn xa xăm.

- Ngải

Tình, chị nhất định phải về trời ư, không thể lưu lại nhân gian ư?

Tôi

đứng lên.

- Khuya

rồi, đi nghỉ thôi.

Sáng

sớm hôm sau, chúng tôi lên đường quay về. Tôi vốn chẳng có hứng để làm việc,

lại cũng không muốn ở cùng Pusyseda, nên đã đề nghị về sớm. Nhất định phải lấy

lại được chiếc đồng hồ vượt thời gian. Tôi đã ở Khâu Từ gần nửa năm, nếu không

gấp rút lên đường, có khi vừa đặt chân tới kinh đô Trường An, thời hạn một năm

đã hết, chưa gặp được Phù Kiên đã phải quay về thế kỷ XXI cũng nên.

Chúng

tôi phải dựng trại qua đêm trên đường, lẽ ra chỉ tối hôm sau là có thể về đến

thành Khâu Từ. Nào ngờ, trưa hôm đó khi chúng tôi đang nghỉ ngơi trong rừng

dương thì đã xảy ra một biến cố lớn.

Khi ấy

chúng tôi vừa nghỉ ngơi xong, đang chuẩn bị lên đường. Vừa bước vào xe, tôi

bỗng nghe thấy những tiếng động lạ. Khẽ thò đầu ra ngoài thì một vật thể lạ đột

ngột bay vút tới, cắm phật vào cửa xe, tôi lập tức nhận ra đó là một mũi tên.

Tiếng Pusyseda gào lên:

- Ngải

Tình, vào xe, ngồi yên trong đó!

Vừa

ngồi xuống, cỗ xe bỗng nghiêng về phía

sau, bên ngoài, tiếng ngựa hí lên thảm thiết, cỗ xe lao đi như bay. Xe ngựa

rung lắc dữ dội khiến tôi ngã lên ngã xuống đau điếng, tôi cố sức bò ra cửa xe.

Vất vả lắm mới kéo nổi rèm cửa, tôi thấy một mũi tên cắm trên lưng ngựa còn phu

xe thì đã mất tăm mất dạng từ bao giờ. Bốn bề là sa mạc hoang vắng, không thấy

Pusyseda. Tôi chao đảo, choáng váng, buồn nôn nhưng vẫn gắng gượng lết đến bên

cánh cửa, cắn răng, co người nhảy xuống. Không biết tôi đã lăn trên mặt đất bao

nhiêu vòng, chỉ thấy cánh tay bị thương truyền đến cơn tê buốt, rụng rời.

Sau đó,

đầu tôi va phải một vật gì đó rất lạnh, trời đất tối sầm và tôi không thấy gì

nữa cả.